Hoàn cảnh Chiến_tranh_Sáu_Ngày

Chuẩn bị chiến tranh

Sau khi ký kết ngừng bắn khủng hoảng Kênh đào Suez năm 1956, Ai Cập và Syria tiếp tục tăng cường sức mạnh chiến đấu bằng việc mua vũ khí từ Liên Xô và Tiệp Khắc. Vào năm 1956, Ai Cập đã nhận được 120 xe tăng T-34-85 từ Tiệp Khắc. Việc cung cấp T-34 được tiếp tục trong những năm 1962-1963. Trong giai đoạn này, Ai Cập đã nhận được 130 xe tăng T-54A. Trong những năm 1965-1967, đã có 150 xe T-34-85 và T-55, 25 xe tăng IS-3 và 150 xe PT-76 được mua.

Syria đến năm 1967 thì đã nhận từ Liên Xô khoảng 750 xe tăng T-34-85 và T-54A. Các xe tăng T-54 được trang bị hoàn toàn cho các lữ đoàn tăng số 14 và 44.

Phía quân đội Israel cũng ráo riết vũ trang và tích cực chuẩn bị chiến tranh. Lực lượng chính của các lữ đoàn thiết giáp Israel là khoảng hơn 1.200 xe tăng, bao gồm 385 xe tăng Centurion (toàn bộ đã được nâng cấp để gắn pháo 105mm kiểu mới) và 250 xe tăng M48 Patton (toàn bộ đã được nâng cấp lên phiên bản M48A3, thay động cơ tốt hơn và gắn pháo 105mm kiểu mới). Ngoài ra còn có 180 chiếc M4 Sherman cải tiến (mang pháo 105mm) và 400 chiếc xe tăng hạng nhẹ AMX-13 (mua của Pháp). Israel đã chuẩn bị các phương án tấn công mạnh, mang tính chất phủ đầu vào phía Ả rập nhằm giải quyết các vấn đề tranh chấp.

Khủng hoảng

Kể từ sau cuộc chiến tranh năm 1956, Ai Cập đồng ý để Liên Hiệp Quốc triển khai lực lượng gìn giữ hòa bình tại Sinai, để đảm bảo phi quân sự khu vực này, và ngăn chặn du kích (fedayeen) người Palestine xâm nhập phá hoại Israel.[8]

Ai Cập cũng đồng ý mở eo biển Tiran cho thuyền bè Israel, vốn là một vấn đề góp phần gây ra cuộc Khủng hoảng kênh đào Suez. Kết quả là biên giới Ai Cập và Israel được bình ổn trong một thời gian.[9]

Vào lúc 10:00 giờ tối ngày 16 tháng 5, Chỉ huy lực lượng Liên hiệp quốc, Thiếu tướng Indar Jit Rikhye, nhận được thư từ tướng Mohammed Fawzy, Tổng tham mưu trưởng Cộng hòa Ả Rập Thống nhất, đòi quân LHQ rút khỏi các vị trí trên biên giới. Rikhye đáp lại là ông sẽ liên lạc với Tổng thư ký LHQ để xin chỉ thị.[10]

Ngày 19 tháng 5, chỉ huy quân LHQ nhận được lệnh rút lui.[11][12] Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser tiếp đó cho tiến hành tái quân sự hóa vùng Sinai, tập trung binh lính và xe tăng dọc theo biên giới Israel.[13]

Quân đội Israel phá hủy máy bay Ả RậpEo biển Tiran

Mùa xuân năm 1967, phía Liên Xô cung cấp cho chính phủ Syria những tin giả là Israel đang chuẩn bị tấn công Syria; Syria thông báo cho Ai Cập.[14] Ngày 22 tháng 5, để đáp lại, Ai Cập tuyên bố, ngoài việc yêu cầu quân LHQ rút lui,[14] họ cũng sẽ đóng của Eo biển Tiran với tàu thuyền "mang cờ Israel hoặc chuyên chở vật liệu chiến lược", bắt đầu từ ngày 23 tháng 5.[15]

Phát biểu trước Liên đoàn thương mại Ả Rập ngày 26 tháng 5, Nasser tuyên bố: "Nếu Israel dấn vào các hoạt động thù địch chống lại Syria hay Ai Cập, thì trận chiến chống lại Israel sẽ là trận chiến toàn diện, không chỉ giới hạn ở biên giới Syria hay Ai Cập và mục tiêu cơ bản của chúng ta là hủy diệt Israel."[16][17]

Israel tỏ ra lo lắng trước xem việc Ai Cập đóng cửa eo biển, yêu cầu Hoa Kỳ và Anh can thiệp để mở lại Eo biển Tiran, như họ đã bảo đảm năm 1957. Thủ tướng Anh Harold Wilson đề xuất đưa một lực lượng hải quân quốc tế đến để giải quyết cuộc khủng hoảng, nhưng dù đề nghị của ông được Mỹ chấp thuận, nhận được rất ít ủng hộ từ cộng đồng quốc tế, chỉ có Anh và Hà Lan đề nghị đóng góp hải quân cho lực lượng này.

Với những hành động mà gây hấn của Nasser, bao gồm việc phong tỏa Eo biển và động viên quân đội về bán đảo Sinai, gây nên sức ép quân sự và kinh tế lên Israel, cùng với việc Hoa Kỳ trù trừ, vì vướng vào cuộc Chiến tranh Việt Nam, ban lãnh đạo quân sự và chính trị của Israel thấy rằng việc đánh phủ đầu không những có lợi về mặt quân sự, mà còn có khả năng xoay chuyển tình thế.

Nỗ lực ngoại giao

Nội các Israel nhóm họp ngày 23 tháng 5 và quyết định mở cuộc tấn công nếu Eo biển Tiran không được mở trở lại ngày 25 tháng 5. Sau khi Thứ trưởng ngoại giao Mỹ Eugene Rostow liên lạc tìm kiếm thêm thời gian để đàm phán cho một giải pháp hòa bình, phía Israel đồng ý trì hoãn thêm từ 10 ngày cho tới 2 tuần nữa.[18] Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, U Thant, đến Cairo để hội đàm và nối lại các hoạt động ngoại giao giải quyết cuộc khủng hoảng. Ai Cập chấp thuận, nhưng Israel bác bỏ các đề xuất mà ông đưa ra. Việc Nasser nhượng bộ không có nghĩa là ông tìm cách tránh chiến tranh, mà chỉ nhằm giành thêm ưu thế chiến lược và chính trị, vì đồng ý giải quyết bằng con đường ngoại giao sẽ thu được sự ủng hộ từ cộng đồng quốc tế. Hơn thế nữa, việc trì hoãn khiến Ai Cập có thêm thời gian hoàn tất việc chuẩn bị về mặt quân sự và phối hợp với lực lượng của các quốc gia Ả Rập khác. Ngoài ra, việc Israel bác bỏ không nhất thiết là họ tỏ ra hiếu chiến, mà chỉ là thể hiện sự cấp thiết tình hình. Israel không có khả năng duy trì lệnh tổng động viên trong một thời gian dài.[19]

Ban lãnh đạo Israel quyết định là nếu như Hoa Kỳ không làm gì, và Liên Hiệp Quốc án binh bất động, thì Israel phải hành động. Ngày 1/6/1967, “độc nhãn tướng quân” Moshe Dayan (ông này bị chột mắt phải) được cử làm bộ trưởng quốc phòng, đồng thời Israel thành lập nội các thống nhất với sự tham gia của các đảng phái đối lập. Trong 2 tuần trước chiến tranh, Israel ra lệnh tổng động viên, mọi công dân nam từ 18 đến 55 tuổi được lệnh sắn sàng nhập ngũ, đa số các phương tiện cơ giới được trưng dụng. Ngày 4/6, nội các Israel quyết định sẽ tập kích bất ngờ bằng không quân vào sáng ngày 5/9.

Tháng 5 năm 1967, chủ tịch quốc hội Ai Cập Anwar Sadat có chuyến thăm chính thức đến Liên Xô và hội kiến với chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Alexei Kosygin. Thứ trưởng bộ ngoại giao Liên Xô đã thông báo một tin quan trọng: Tình báo Xô Viết vừa cho biết Israel đang tập trung ít nhất 11 lữ đoàn sát biên giới với Syria. Phía Liên Xô muốn Sadat báo tin này cho tổng thống Ai Cập Nasser ngay lập tức. Liên Xô còn chia sẻ tin tình báo này với các nước khác trong khu vực, thậm chí là với cả chính Israel[20]. Nhưng phía Ai Cập và Syria đã tỏ ra chủ quan, coi thường các tin tình báo này và đã không đặt quân đội trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao. Đây là một trong những nguyên nhân chính khiến liên quân Ả Rập hoàn toàn bị bất ngờ và thất bại nhanh chóng khi Israel tấn công phủ đầu.

Lực lượng hai bên

Trước khi chiến sự nổ ra, Ai Cập tập trung khoảng 100 ngàn trong tổng số 160 ngàn quân về bán đảo Sinai, bao gồm toàn bộ bảy sư đoàn (4 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn xe bọc thép và 1 sư đoàn cơ giới), cũng như bốn lữ đoàn bộ binh độc lập và bốn lữ đoàn thiết giáp độc lập. Không dưới một phần ba trong số đó là các binh lính kỳ cựu từ cuộc can thiệp của Ai Cập vào nội chiến Yemen cùng với khoảng một phần ba khác là quân dự bị. Lực lượng này có 950 xe tăng, 1.100 xe bọc thép và hơn 1.000 khẩu pháo.[21] Cùng thời gian một số binh lính Ai Cập (15.000 - 20.000) vẫn còn tham chiến tại Yemen.[22][23][24][25]

Sự mâu thuẫn và bối rối trong mục tiêu của Ai Cập được thể hiện qua các mệnh lệnh mà Tổng thống Nasser đưa ra cho quân đội. Bộ chỉ huy thay đổi kế hoạch tác chiến bốn lần trong tháng 5 năm 1967, mỗi lần thay đổi như vậy lại phải tái triển khai binh lính, dẫn đến hao mòn xe cộ và làm binh lính mệt mỏi. Tới cuối tháng năm, Nasser nghiêm cấm bộ chỉ huy tiến hành kế hoạch Qahir ("Chiến thắng"), theo đó thiết lập một hàng rào bộ binh trang bị nhẹ tại các vị trí phòng ngự tiền tiêu, với đại bộ phận lực lượng còn lại được giữ lại ở phía sau để tiến hành một cuộc phản công lớn nhằm vào lực lượng tấn công chính của Israel, và hạ lệnh thiết lập hàng rào phòng ngự từ xa tại Sinai.[26] Trong thời gian đó, ông tiếp tục tiến hành các hoạt động nhằm gia tăng mức động viên quân đội từ Ai Cập, Syria và Jordan, nhằm gia tăng sức ép lên Israel.

Syria có quân đội gồm 75.000 người.[27] Jordan có quân đội gồm 55.000 người,[28] bao gồm 300 xe tăng, 250 trong số đó là các xe M48 Patton sản xuất tại Mỹ, một số lớn xe bọc thép M113, một tiểu đoàn bộ binh cơ giới và một tiểu đoàn lính dù huấn luyện trong một căn cứ Hoa Kỳ xây dựng. Họ cũng có 12 tiểu đoàn pháo binh và 6 khẩu đội cối 81mm và 120mm.[29]

Tài liệu mà phía Israel thu được từ phía Jordan cho thấy mệnh lệnh từ cuối tháng 5 cho Lữ đoàn Hashemite đánh chiếm Ramot Burj Bir Mai'in bằng cách đột kích bất ngờ trong đêm, mệnh danh "Chiến dịch Khaled". Mục tiêu của chiến dịch này là thiết lập một đầu cầu, cùng với các vị trí tại Latrun tạo điều kiện cho xe bọc thép đánh chiếm LodRamle. Khẩu lệnh "tiến công" là Sa'ek, đáp lại là Nasser. Quân Jordan cũng lên kế hoạch đánh chiếm MotzaSha'alvim trên hành lang Jerusalem chiến lược. Lữ đoàn bộ binh 27 đóng tại Ma'ale Adummim được giao nhiệm vụ đánh Motza: "Lữ đoàn dự bị sẽ mở màn chiến dịch đột kích ban đêm, phá hủy nó đến tận gốc rễ, không để bất cứ người nào trong số 800 cư dân sống sót".[29]

100 xe tăng và một sư đoàn bộ binh Iraq cũng được đặt ở tình trạng báo động gần biên giới Jordan. Hai phân đội máy bay chiến đấu Hawker HunterMiG 21, cũng được chuyển về gần các căn cứ sát biên giới Jordan.[29]

Quân Israel lúc tổng động viên, tức bao gồm cả quân dự bị, gồm 264.000 người, dù số quân đó không thể duy trì lâu dài được, vì quân dự bị đóng vai trò sống còn trong vận hành cuộc sống hàng ngày của đất nước.[30] Tuy ít hơn về quân số, nhưng chất lượng huấn luyện và tinh thần chiến đấu của quân Israel cao hơn hẳn so với lính Ả Rập. James Reston, trong New York Times ngày 23 tháng 5 năm 1967, nhận xét: "Về mặt kỷ luật, huấn luyện, tinh thần, trang bị và năng lực nói chung, quân đội của Nasser và các lực lượng A Rập khác, không kể đến trợ giúp trực tiếp từ Liên Xô, không phải là đối thủ của người Israel... Ngay cả với 50 ngàn quân và các tướng lãnh giỏi nhất, cùng với không quân, tại Yemen, ông ta cũng không thể đạt được mục tiêu của mình trong cái quốc gia nhỏ bé và lạc hậu ấy, thậm chí nỗ lực của ông nhằm giúp đỡ lực lượng nổi dậy tại Congo cũng thất bại."[31]

Tối ngày 1 tháng 6, Bộ trưởng quốc phòng Israel Moshe Dayan liên lạc với Tham mưu trưởng Yitzhak Rabin và Tổng chỉ huy, thiếu tướng Yeshayahu Gavish để đệ trình kế hoạch đánh Ai Cập. Rabin lên kế hoạch theo đó Đạo quân phía nam sẽ đánh thọc qua Dải Gaza, chiếm vùng này làm con tin, cho tới khi Ai Cập đồng ý mở lại Eo biển Tiran, nhưng Gavish có một kế hoạch tổng thể hơn nhằm tiêu diệt hoàn toàn các lực lượng Ai Cập tại Sinai. Rabin thích kế hoạch của tướng Gavish hơn, rồi tướng Dayan cũng chuẩn y kế hoạch này, với cảnh báo là phải tránh việc cùng lúc đối đầu với quân Syria.[32]

Ngày 2 tháng 6, Jordan động viên sĩ quan dự bị, Chỉ huy vùng Bờ Tây gặp các chỉ huy khu vực để yêu cầu giúp đỡ và phối hợp với binh lính của mình khi chiến tranh nổ ra, cam kết với họ là "trong vòng 3 ngày chúng ta sẽ đến Tel-Aviv".[29]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Sáu_Ngày http://archives.cnn.com/2002/WORLD/meast/04/14/me1... http://www.economist.com/countries/Israel/profile.... http://www.history.com/encyclopedia.do?vendorId=FW... http://www.historycentral.com/Israel/1967SixDayWar... http://encarta.msn.com/encnet/refpages/search.aspx... http://encarta.msn.com/encyclopedia_761570433/Six-... http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_10/I... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,1... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9... http://www.time.com/time/printout/0,8816,837237,00